Hurt - Chương 3
Chapter 3 : Ngày thứ hai mươi mốt
Đã gần một tuần kể từ khi tôi sống ở cô nhi viện, mọi thứ vẫn như cũ. Không một đứa trẻ nào đến gần bắt chuyện hay muốn làm bạn với tôi. Tất cả những gì tôi cảm nhận được là cái ánh nhìn căm ghét, khinh thường của những đứa trẻ ở đây.
Những đứa trẻ ở cô nhi viện ghét tôi vì họ nghe rằng tôi sinh ra trong một gia đình giàu có, họ ghen tỵ vì tôi có người thân, họ nghĩ tôi hẳn không được bình thường mới đến nơi này trong khi vẫn còn cha và mẹ. Họ khinh thường tôi vì tôi có thứ họ không có, và vì tôi không cùng chung một thế giới với họ. Họ như những chủ nhà khó chịu vì sự có mặt của người khách không mời. Họ khó chịu vì sự có mặt của tôi.
Ngày qua ngày, tôi quan sát cuộc sống của những đứa trẻ cùng trang lứa trong cô nhi viện, họ không có cha mẹ nhưng có rất nhiều bạn. Tất cả lớn lên cùng nhau, cùng ăn, cùng ngủ, cùng cười, cùng chia sẻ mọi thứ….. Cuộc sống có lúc vui lúc buồn, nhưng tôi chưa bao giờ thấy nụ cười tắt trên gương mặt trẻ con của họ.
Chỉ tiếc là những đôi mắt ấy không nhìn thấy tôi và những nụ cười đó không dành cho tôi.
Tuy sống cùng một căn nhà, nhưng tôi giống như tù nhân bị xiềng xích trong bốn bức tường đá lạnh lẽo, còn họ như những tia nắng ung dung nhảy múa bên ngoài và nhìn tôi đầy chế giễu. Thứ ánh sáng tôi có thể nhìn thấy nhưng không bao giờ chạm tới.
Tôi chứng kiến những đứa trẻ ở đây lớn lên trong sự chăm sóc của các sơ, rồi lần lượt từng người trong số họ được người lớn nhận nuôi. Họ chia tay các bạn, từ giã nơi này để đến với hạnh phúc của chính mình. Rồi lại có những đứa trẻ mới xuất hiện trong cô nhi viện, họ sống vui vẻ bên bạn bè và hạnh phúc lại đến đón họ đi….. Cuộc sống trong trại trẻ mồ côi cứ tiếp tục như thế, số phận những đứa trẻ cứ thay đổi như thế……
Và tôi vẫn chỉ có một mình. Vẫn chỉ là cái bóng sống vật vờ trong ngôi nhà rộng lớn này. Tôi cũng không quan tâm có ai nhận ra sự có mặt của mình hay không. Bản thân cái bóng cũng dần quên mất rằng nó đang tồn tại.
Một đêm như thường lệ, tôi nằm trên giường, nhìn về phía bầu trời đêm không trăng và tiếp tục nghĩ về những mơ ước. Rồi chúng nhanh chóng bị gián đoạn bởi tiếng bước chân bên kia cánh cửa, dù rằng tiếng động rất nhỏ nhưng cũng dễ lọt vào tai tôi giữa không gian tĩnh lặng. Thế là tôi thôi mơ mộng, nhìn về phía cửa ra vào và bắt gặp một thứ ánh sáng yếu ớt khẽ lướt qua. Không suy nghĩ, tôi bước xuống giường, xỏ đôi dép vào và đi ra khỏi phòng.
Theo hướng ánh sáng ngang qua vừa nãy, tôi lần mò trong đêm tối rồi cứ thế tiến thẳng về phía trước. Mãi đến một lúc sau, tôi mới nhìn thấy có ánh sáng hắt ra từ một căn phòng cửa để mở. Với bản tính tò mò của một đứa bé, tôi liền mở cửa bước vào trong.
Căn phòng tôi đang đứng chói lòa khiến tôi phải lấy tay che lại. Khi mắt đã quen dần với ánh sáng, tôi nhận ra mình đang đứng trong một căn phòng rất đỗi quen thuộc. Phòng cầu nguyện.
Đó là nơi các sơ đưa tất cả những đứa trẻ trong cô nhi viện đến đây vào mỗi buổi sáng để cầu nguyện và mong Chúa ban phước lành. Tôi cũng đến đây mỗi ngày, nhưng không phải để cầu nguyện như mọi người. Tôi đến chỉ vì tất cả đều tập trung ở đây và chỉ có ở đây tôi mới có được cảm giác là một người trong số họ, một người sống giữa những người khác, một người nhận ra được sự tồn tại của mình không phải là điều không tưởng.
Tôi cũng không cầu nguyện. Vì tôi không tin vào Chúa.
Cái ánh sáng chói chang tôi vừa thấy khi nãy chỉ là thứ ánh sáng le lói phát ra từ hàng chục ngọn đèn cầy cắm quanh bức tượng bằng thạch cao của Chúa Jesus. Dưới chân ngài là một sơ đang quỳ gối thành tâm cầu nguyện, là người đã hi vọng số phận tôi sẽ thay đổi khi đến đây.
Thật kỳ lạ! Tại sao sơ lại cầu nguyện vào giữa đêm khuya như thế này?” Sơ Marine chú tâm đến nỗi bà không nhận ra sự có mặt của tôi. Giữa những lời cầu nguyện, tôi nhận ra có những tiếng nghẹn và thỉnh thoảng là những tiếng nấc khiến giọng đọc bị đứt quãng. Tôi còn nhận thấy vai sơ Marine run lên như đang sợ hãi thứ gì đó. Trong đầu tôi đầy những câu hỏi, chúng như đang nổi loạn và chỉ chờ nhảy ra ngoài để tìm câu trả lời.
“Sơ Marine!” Tò mò, tôi lên tiếng hỏi, quên mất mình là kẻ bí mật lén vào đây.
Sơ Marine khẽ giật mình, tiếng cầu nguyện ngừng lại. Bà quay về phía vang lên giọng nói và bất ngờ khi nhìn thấy tôi.
“Sanae! Tại sao con không đi ngủ mà lại ở đây?” Sơ đi về phía tôi, gương mặt không giấu được vẻ ngạc nhiên.
“Con nhìn thấy sơ đi ngang qua phòng con. Con liền đi theo vào đây và nhìn thấy sơ đang cầu nguyện……” Tôi nhìn vào đôi mắt đỏ hoe của bà, hỏi “…. Sao sơ lại khóc vậy sơ Marine?”
“Ah….. ta đâu có khóc….” Nghe tôi nói, bà vội lấy vạt áo chùi mắt.
“Ai làm sơ khóc vậy?” Tôi vẫn không nghĩ mình đoán sai.
“Không….không có ai làm ta khóc cả…..” Sơ chối một cách vụng về “….chỉ là ta…..”
“Có phải chính ông ấy làm sơ khóc không?” Tôi hỏi và chỉ tay về phía bức tượng của Chúa. Khi đó, một đứa trẻ như tôi không nhận ra gọi Ngài như thế là một sự mạo phạm. Tôi chỉ nói những gì tôi nghĩ.
Sơ Marine không trách tôi vì lời nói trẻ con đó, dường như câu hỏi của tôi nói đúng chuyện của sơ. Không kiềm chế được nữa, Sơ nhìn Ngài và khóc, khóc như một người nhận ra mình mất tất cả…..chỉ trong một đêm.
“Sơ Marine…..” Tôi muốn hỏi nguyên do Ngài làm sơ khóc, nhưng nỗi đau của sơ như lan vào tim tôi khiến tôi nín lặng.
“Ta đã cầu nguyện mỗi ngày kể từ khi còn nhỏ…..Ta luôn tin tưởng vào Ngài và không lúc nào ta phản bội lại Đức Cha…..” Sơ Marine gạt nước mắt, giải thích cho tôi “……Vậy mà cách đây ba ngày ta nhận được giấy báo của bác sĩ…..nói rằng bệnḥ ung thư….máu….. của ta không thể chữa khỏi…. Ta chỉ còn….chỉ còn…….hai….hai mươi ngày….. để cầu nguyện Ngài tha thứ cho…..cho sai lầm của ta……”
“Vậy sơ đã hết bệnh chưa?” Tôi ngu ngơ hỏi, không biết “ung thư máu” là gì, nhưng làm người ta lo sợ thì có lẽ nó là một thứ bệnh có thể lấy đi tính mạng của sơ Marine. Cho nên sơ mới phải ở đây cầu nguyện mỗi đêm.
“C….Chưa….nhưng sẽ hết thôi….. Nhất định là thế….” Sơ mỉm cười với tôi, nhưng tôi thấy nụ cười đó chứa đầy sự đau đớn “…….Ngài nhất định sẽ nghe lời cầu nguyện của ta và giúp ta….. Đức Cha rất nhân từ, Ngài sẽ không bỏ rơi con của Ngài….. Hơn nữa ta còn rất nhiều việc phải làm, ta còn phải sống để giúp con không còn bất hạnh….. Ta sẽ không chết đâu….. chưa phải bây giờ….”
Sơ Marine kiềm chế tiếng nấc nghẹn và quay lại tiếp tục công việc cầu nguyện. Sơ còn mười bảy ngày để chờ Chúa cứu rỗi.
Tôi đứng im lặng nhìn sơ run rẩy đọc kinh thánh, rồi nhìn sang bức tượng Chúa bị đóng đinh trên đầu sơ Marine.
Có thật bức tượng thạch cao này sẽ nghe lời thỉnh cầu của sơ và cứu sơ thoát khỏi bệnh tật?
Trước sự thành tâm của sơ, Ngài không có vẻ gì là động lòng. Ngài chỉ đứng bất động và nhìn xuống đứa con của mình đang sợ hãi. Im lặng.
Trong lòng đứa trẻ không tin tưởng phép màu như tôi nhen nhóm một niềm tin nhỏ bé. Lần đầu tiên tôi thử đặt hi vọng vào ngài và cầu nguyện, tôi mong Đứa Cha sẽ nghe thấy lời thỉnh cầu của sơ Marine và đừng để bệnh tật mang sơ đi, để sơ có thể ngày ngày lại được cầu nguyện cho Ngài.
Từng ngày trôi qua, mỗi lần sơ cầu nguyện đều có tôi bên cạnh. Cả hai đều có cùng một lời thỉnh cầu và đều mong Chúa sẽ nghe được. Sơ như một con chiên ngoan đạo lạc bước trong bóng tối, chờ đợi Đức Cha mở đường dẫn ra ánh sáng.
Mỗi ngày, thời gian của sơ dần hết, sơ Marine lại càng cầu nguyện nhiều hơn. Mỗi ngày, tôi lại chỉ càng thấy sơ tiến sâu hơn vào trong bóng tối. Mỗi ngày, niềm tin mới nhen nhóm trong lòng tôi lại càng nguội dần…..
Ngày thứ hai mươi, sơ Marine không tới cô nhi viện. Sơ không còn cầu nguyện nữa.
Ngày thứ hai mươi mốt, sơ trưởng thông báo cho toàn trại trẻ mồ côi biết sơ Marine đã qua đời, và yêu cầu toàn bộ bọn trẻ phải mặc lễ phục đến nhà thờ Golden để làm lễ an táng sơ.
Trong khi đang thay trang phục, cả cô nhi viện bàn tán xôn xao về sự ra đi
của sơ Marine. Tôi đã mặc xong chiếc áo chùng đen, nắm chặt sợi dây chuyền thánh giá trong tay, tôi đứng lặng người trước cái tin dữ.
Ngày hai mươi mốt, tôi mất sơ Marine, Đức Cha mất đi một đứa con trung thành. Cũng ngày đó, niềm tin vào Chúa le lói trong tim tôi đã tắt hẳn, tôi nhận ra sự thật.
Chúa không thể cứu sơ Marine.
Lẽ ra tôi không nên tin vào bức tượng vô tri giác đó.
Giám mục Pete- người thành lập nên trại trẻ mồ côi của thành phố Himeji- đang cầm cuốn sách kinh thánh, đọc lên những lời tiễn đưa sơ Marine. Bọn trẻ chúng tôi cùng các sơ ai cũng mặc áo chùng đen, đeo dây chuyền thánh giá lên cổ, đứng vây quanh cỗ quan tài bằng gỗ thông đặt sâu xuống lớp cỏ xanh. Các sơ ai cũng rơi nước mắt, những đứa trẻ hầu như đều ngoan ngoãn im lặng, trong khi những đứa nhỏ nhất sợ hãi giấu mình sau vạt áo nữ tu của người lớn.
Giọng trầm khàn của cha rõ hơn bao giờ hết, vang vọng trong bầu trời lặng gió, khiến tôi có cảm tưởng cả hàng cây tuyết tùng tít đằng xa cũng có thể nghe thấy. Nhưng giọng cha không thể lọt vào đầu tôi, tâm trí tôi đang tự vẽ lại cái cảnh mỗi đêm tôi ở bên cạnh sơ Marine trong phòng cầu nguyện, giữa mùi khét của sáp và ánh sáng nóng bức nhưng le lói từ hàng chục chiếc đèn cầy. Tôi nhìn vào bức tượng Chúa Jesus, nhìn vào đôi mắt trống rỗng của Ngài.
Ngài không nhìn lại tôi, Ngài cũng không nhìn sơ Marine….
Sau khi kết thúc bài kinh thánh, cha Pete cầm chiếc bình mạ vàng rẩy nước thánh xuống cỗ quan tài. Các sơ giục bọn trẻ đặt những bông hoa Lyly trắng xuống mộ sơ Marine, bọn trẻ răm rắp làm theo, ngoại trừ tôi. Cuối cùng, các sơ lùa chúng tôi đi theo cha Pete trở vào nhà thờ để tiếp tục làm lễ, trong khi ba người đàn ông khỏe mạnh dùng đất lấp lại cái huyệt.
Bên trong nhà thờ, cha giám mục vẫn tiếp tục đọc to lời dạy từ cuốn sách “Khải huyền” và tất cả cùng đọc theo cha. Cuốn kinh thánh nói về sự ra đi của một con chiên chỉ là để từ bỏ những tội lỗi nơi trần gian và họ sẽ được lên thiên đường. Nơi đó, không có sự xấu xa và bệnh tật, cũng không có đau đớn và nỗi buồn. Nơi đó, họ sẽ gặp được Chúa, Đức Cha sẽ mỉm cười nhân từ tha thứ tất cả tội lỗi của họ và Ngài sẽ cho họ bắt đầu lại cuộc sống mới trong một hình dạng mới. Một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Mọi người tin vào Chúa, tin vào lời dạy của Chúa và tất cả cùng cầu nguyện cho sơ Marine đến được nơi thiên đường.
Có bao giờ mọi người ngừng một phút cầu nguyện, để nhìn xem Chúa có dõi theo cuộc đời của họ không? Có lắng nghe họ không? Và có bao giờ đáp lại lời thỉnh cầu của họ haỵ không?
Suy nghĩ đó khiến tôi cảm thấy khó chịu. Tất cả đều giống sơ Marine, suốt đời cầu nguyện chỉ để Chúa trời thực hiện duy nhất một mong ước của mình. Nhưng cuối cùng thì sao? Chúa đã làm gì được cho các con của Ngài? Chúa đã ở đâu khi sơ Marine cần Ngài?
Trong khi mọi người đang cầu nguyện, tôi khẽ đứng dậy và bước ra bên ngoài. Tôi không muốn hi vọng nữa và tôi cũng không muốn tin vào bức tượng được gọi là đấng Chúa trời đó nữa.
Ngôi mộ sơ Marine đã hoàn toàn nằm sâu dưới lớp cỏ xanh mượt. Bên trên, ba người đàn ông đặt một bia đá khắc tên sơ cùng năm sinh và năm mất. Sau cùng là một cây thánh giá to bằng đá được dựng đứng lên khỏi nền cỏ. Giống như những ngôi mộ khác, sơ Marine trở thành một phần của nghĩa trang nhà thờ. Niềm tin mãnh liệt và ước mơ dang dở của sơ Marine đã được chôn theo sơ. Đứa bé sơ từng hi vọng sẽ thay đổi được số phận của nó giờ đây đang đứng trước mặt sơ, vẫn bị bóng tối bao phủ. Vẫn không có gì thay đổi.
Trời bỗng nhiên nổi gió mạnh, những hàng cây xanh mướt và nhọn hoắt bao quanh khu nghĩa trang rung lên dữ dội, lá cây va đập vào nhau phát ra âm thanh như tiếng hét. Tôi nắm chặt bông hoa Lyly trong tay và chạy về phía bóng người đứng khuất sau rặng cây tuyết tùng.
Tôi trao bông hoa của mình cho bóng đen và người ấy mỉm cười nhận lấy. Tôi nhìn dáng người quen thuộc, nụ cười quen thuộc và đang cố ghi nhớ chúng. Sau này, hẳn tôi sẽ nhớ những hình ảnh này lắm. Những hình ảnh mà tôi không còn cơ hội nhìn lại.
Cả tôi và bóng đen đứng trong gió, im lặng nhìn nhau. Tiếng gió đưa tôi trở lại ngày đầu tiên sơ Marine gõ cửa nhà tôi và những ngày tháng tôi sống ở cô nhi viện. Tất cả ký ức mờ ảo lướt chậm qua đầu tôi như một đoạn phim trắng đen cũ.
Cuốn phim cứ chạy và dừng lại tại hình ảnh đám tang tôi vừa dự khi nãy. Tôi lên tiếng, nói với bóng người trước mặt ý nghĩ tôi đã cất giấu ngay từ lần đầu quen biết sơ.
“Sơ biết không sơ Marine…. Con không tin vào Chúa. Chưa bao giờ….Ông ấy không cứu giúp được sơ, ông ấy không cứu được ai hết…..Chúa chỉ là một bức tượng…..”
Nếu như trước đây khi nghe những lời nói này của tôi, sơ sẽ lập tức bảo tôi hãy từ bỏ suy nghĩ đó và học cách đặt niềm tin vào một người. Nhưng bây giờ sơ Marine không đáp lại. Dù trang phục sơ mặc toàn màu đen và dù bóng cây tuyết tùng đã che khuất gương mặt sơ, nhưng tôi vẫn nhìn thấy đôi mắt và nụ cười sơ Marine đẫm buồn.
Buồn vì những lời nói ngu ngốc của một thằng bé như tôi? Hay buồn vì sơ nhận ra lời nói của tôi là đúng?
Gió tiếp tục thét gào. Sơ Marine vẫn tiếp tục đứng im lặng nhìn tôi……
“Sanae! Sanae!” Sơ Violetta đứng từ xa, cất giọng gọi tên tôi. Sơ nói khi thấy tôi quay đầu lại “………Lại đây đi Sanae! Chúng ta phải đi về đấy”
Tôi gật đầu ra hiệu đã nghe thấy và quay lại với sơ Marine, tôi muốn nói lời tạm biệt. Nhưng sơ Marine đã không còn đứng ở đây nữa.
Sơ đã đi và mang theo bông hoa Lyly tôi tặng.
Tôi không biết mọi người sẽ đi về đâu sau khi họ đã chết. Nhưng chắc chắn nơi đó không có Chúa như lời người lớn đã nói.
“Con ở đó làm gì vậy?” Sơ Violetta hỏi khi tôi chạy về phía sơ.
“Con thăm một người bạn!” Tôi đáp, cởi sợi dây thánh giá ra khỏi cổ.
“Bạn con à Sanae? Sao ta không thấy?” Sơ nhìn về phía hàng cây tuyết tùng trống không, nơi tôi và sơ Marine gặp nhau. Lần cuối.
“Người ấy đi rồi!” Tôi đưa sợi dây cho sơ Violetta rồi chạy về phía chiếc xe hơi đang chờ ngoài cổng nhà thờ.
“Hey! Con phải mang cái này cho đến khi về nhà chứ” Sơ gọi với lại và bước theo tôi.
Nhìn thấy những đứa trẻ trong xe đang cười nói, tôi nhận ra tôi sẽ không còn thức cùng sơ Marine mỗi đêm để thắp lên một niềm tin hoang đường, không còn ngửi mùi khét và chịu đựng cái hơi nóng do những ngọn đèn cầy mang lại. Tôi cũng sẽ không còn nhìn thấy bức tượng thạch cao của Chúa Jesus.
Cuộc sống của tôi sẽ trở lại như trước, trở lại với bóng tối, với sự cô độc. Và không có sơ Marine.
Dù cho cuộc sống có thay đổi ra sao, tôi cũng sẽ không tin vào Chúa.
Không bao giờ………..